Những chuyên gia y tế cảnh báo bệnh bạch hầu là căn bệnh rất nguy hiểm với tốc độ lây lan nhanh, khó kiểm soát. Bởi vậy, người dân cần phải tiêm phòng đầy đủ và tới cơ sở y tế kịp thời khi có các biểu hiện nghi mắc bạch hầu.
Con đường lây nhiễm của vi khuẩn bạch hầu
Đường lây nhiễm bệnh của vi khuẩn bạch hầu rất dễ dàng, đó là lây theo đường hô hấp do người bệnh, người lành mang vi khuẩn bạch hầu, nói, ho... Bắn vi khuẩn vào không khí theo khá thở và theo các giọt nước bọt nhỏ li ti, khi người lành hít bắt buộc, nếu chưa có miễn dịch chống vi khuẩn bạch hầu, đặc thù là trẻ em sẽ mắc bệnh bạch hầu, ngay cả người lớn. Vi khuẩn bạch hầu còn lây lan bởi các dụng cụ, đồ áp dụng trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Nếu một bé bị bệnh, dùng đồ chơi, dụng cụ sinh hoạt, không khí trong nhà ở, lớp học (nếu bé đến lớp) sẽ bị lây nhiễm vi khuẩn bạch hầu, khi trẻ nhỏ lành áp dụng các đồ chơi, dụng cụ đó hoặc hít không khí trong phòng có lây nhiễm vi khuẩn bạch hầu sẽ bị nhiễm bệnh.
Đối tượng dễ mắc
Bệnh bạch hầu thường xuất hiện trong các tháng lạnh ở vùng ôn đới. Bệnh có tính mùa, thường tản phát, có khả năng vươn lên là dịch, nhất là bé dưới 15 tuổi chưa được tiêm phòng vắc-xin gây miễn dịch đầy đủ dễ bị mắc bệnh. Bệnh nhân mắc bạch hầu sau khi khỏi bệnh sẽ không bị mắc lại vì cơ thể được miễn dịch lâu dài. Kháng thể miễn dịch của mẹ truyền quý phái con có tác dụng miễn dịch bảo vệ và thường sẽ hết tác dụng trước 6 tháng tuổi.
Biểu hiện của bệnh bạch hầu
Sự nguy hiểm của bệnh bạch hầu
Mắc bệnh bạch hầu là do vi khuẩn bạch hầu gây ra. Vi khuẩn này có loại độc tố cực kỳ mạnh (ngoại độc tố) có khả năng gây cần những thể bệnh như bạch hầu họng, bạch hầu thanh quản do chất fake mạc che kín thanh quản làm cho bệnh nhân không có không khí để thở gây suy hô hấp cấp và có khả năng tử vong nếu cấp cứu không kịp thời. Vì vậy, người ta ví bệnh bạch hầu thanh quản như kiểu chết đuối trên cạn. Một thể bệnh bạch hầu không kém phần nguy hiểm là bạch hầu cấp gây viêm cơ tim cấp, suy tim cấp do độc tố của chúng, nếu chủ quan, phát hiện muộn, không khẩn trương cấp cứu giúp, tính mạng của người bệnh sẽ bị đe dọa nặng.
Dấu hiệu nhận biết
Bệnh bạch hầu có nhiều thể lâm sàng khác nhau, phổ biến nhất là bạch hầu họng với tỉ lệ 70%; bạch hầu thanh quản với tỉ lệ 20-30%; bạch hầu mũi với tỉ lệ 4%; bạch hầu mắt với tỉ lệ 3 - 8% và bạch hầu da ít gặp hơn.
Bạch hầu họng: Bạch hầu họng thể thông thường có thời kỳ ủ bệnh từ 2 - 5 ngày và không có dấu hiệu triệu chứng lâm sàng. Sau đó bệnh khởi phát với biểu hiện sốt nhẹ 37,5 - 38oC; trẻ khó chịu, quấy khóc, da xanh, sổ mũi một bên hoặc cả hai bên.
Thời kỳ bệnh toàn phát xảy ra từ 2 - 3 ngày, ở họng màng nhái lan tràn ở một bên hoặc cả hai bên tuyến hạnh nhân; trong tình trạng nặng hơn, màng giả lan tỏa trùm lưỡi gà và màn hầu. Màng giả thường có màu trắng ngà, dính chặt vào mô ở dưới gây chảy máu khi bóc tách; sau khi bóc tách vài giờ màng lại mọc lại rất nhanh; đặc điểm là niêm mạc quanh màng kém chất lượng vẫn bình thường. Khám thấy có hạch cứng ở cổ, sờ di động, không đau; sổ mũi nước màu trắng. Bệnh nhân sốt khoảng 38-38,5oC, nuốt đau, da xanh xao, người mệt mỏi; mạch nhanh... Nếu phát hiện, chẩn đoán và điều trị sớm bệnh có tiến triển tốt.
Nếu phát hiện, chẩn đoán và điều trị muộn, màng giả lan rộng xuống thanh quản hoặc chuyển biến nặng, bị dấu hiệu nhiễm độc rõ ràng như da xanh tái, mệt lả người, viêm cơ tim; từ ngày 10-15 xuất hiện biểu hiện liệt hoặc chuyển sang thể bạch hầu ác tính thứ phát.
Bạch hầu ác tính tiên phát xuất hiện vào ngày thứ nhất hoặc ngày thứ hai của bệnh. Bạch hầu ác tính thứ phát xuất hiện từ ngày 10-15 của bệnh hoặc có khả năng chậm hơn vào ngày 40-50. Bạch hầu ác tính tiên phát thường mở màn đột ngột với biểu hiện sốt cao, mệt lả người, da xanh tái, nôn, nuốt đau họng.
>>Có thể bạn quan tâm:
>>Có thể bạn quan tâm:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét