Thứ Ba, 12 tháng 11, 2019

Chẩn đoán bại não và cách điều trị

Filled under:

Bại não (hay liệt não) là thuật ngữ chỉ một nhóm hiện tượng bệnh lý ảnh hưởng đến sự kiềm chế các di chuyển cũng như tư thế. Do một hoặc nhiều phần của bộ não có nhiệm vụ điều khiển cử động bị tổn hại nên bệnh nhân trĩ không thể cử động những cơ của mình một cách bình thường. Triệu chứng diễn ra từ nhẹ đến nặng, gồm cả những dạng thức tê liệt.

Bại não là gì?

Bại não là cách gọi tiếng Việt của Cerebral Palsy (CP) mà nhiều nhà chuyên môn và bố mẹ thường quen sử dụng, theo các bác sĩ chuyên khoa tại Trung tâm Vina Health cách gọi này mang tính bi quan và gây sợ hãi cho những bậc phụ huynh, chúng ta cần dịch sát nghĩa là tổn thương não.

Bại não không phải là bệnh:

Bại não là từ miêu tả một loạt những tổn thương từ não bộ gây đe dọa đến sự gia tăng vai trò vận động, ngôn ngữ, cảm giác của trẻ…

Bại não có nhiều dạng mỗi dạng sẽ có các dấu hiệu khác nhau, do một hoặc nhiều phần của bộ não có nhiệm vụ điều khiển cử động bị tác hại, nên người mắc bại não không thể cử động các cơ của mình một cách bình thường.


Infographic về bại não

Phân loại các thể bại não

1. Bại não thể co cứng (Spastic cerebral palsy)

Khoảng 70 – 80% số người mắc bại não ở thể thể liệt cứng với các cơ co cứng, cử động khó khăn. Tình trạng nghiêm trọng nhất là liệt cứng tứ chi, trong đó cả bốn chi và thân người bị liệt và thường thì cả những cơ điều khiển mồm và lưỡi cũng bị liệt. Bé mắc bại não co cứng có tỷ lệ cao bị chậm trí tuệ và có các vấn đề khác.


Bại não thể co cứng chiếm tỷ lệ cao nhất
2. Bại não thể loạn động (Dyskinetic cerebral palsy)

Được đặc thù bằng hệ lụy không ổn định của trương lực cơ (lúc tăng, lúc giảm) và thỉnh thoảng có các cử động không kiềm chế được (có thể là các cử động chậm và đau hoặc nhanh và giật giật). Trẻ mắc thể này thường khó có tư thế ngồi hoặc dáng đi bình thường. Do những cơ điều khiển nét mặt và lưỡi cũng bị hậu quả nên người mắc bại não thể loạn động cũng gặp vất vả khi bú, nuốt và nói.

3. Bại não thể thất điều (Ataxic cerebral palsy)

Khoảng 10% số người mắc bại não thể thất điều, thể này tác động tới khả năng cân bằng tư thế và phối hợp động tác. Người mắc bại não thể thất điều có khả năng đi nhưng với một dáng điệu không vững và gặp vất vả với những cử động nhu yếu sự phối hợp chính xác, ví thử như viết.


Bại não thể máu vờn do hậu quả những nhân vùng nền não

4. Các thể ít gặp

Bên cạnh đó bé còn có khả năng bị mắc bại não ở những thể khác như: bại não thể múa vờn, thể nhẽo, thể phối hợp…với tỉ lệ thấp hơn.

Biểu hiện của bại não

1. Không kiên định vận động

Khi vận động thì chân tay di chuyển không nhịp nhàng, đa phần di chuyển lệch hai bên. Đi tiểu thì không thể dạng hai chân ra được. 3 Tháng vẫn chưa biết ngẩng đầu, 6 tháng chưa biết lật, 8 tháng vẫn chưa ngồi vững. Cơ thể mềm oặt và vận động tự phát rất ít.

2. Xáo trộn sinh lý

trình độ nuốt nghiêm trọng, mức độ ngủ quá dài hoặc không ngủ, cơ thể cứng đờ, vòng đầu thất thường, sau khi sinh không bú được, bú không có lực, sau khi bú thì người mệt lả, thường ngày lộ diện tình trạng ho sặc sụa, trớ sữa, trình độ ngậm và mở miệng không nhỏ, cân nặng tăng không đáng kể.

3. Không kiên định ngôn ngữ

60% – 95% người bại não đều bị xáo trộn ngôn ngữ. Có biểu hiện như gặp vất vả trong việc biểu đạt hoặc chọn từ ngữ, Bên cạnh đó cũng có những biểu hiện như phát âm không chuẩn hoặc nói lắp, cũng có những dấu hiệu như chứng mất ngôn ngữ. Hiện tượng này thường gặp nhiều ở các người bại não thể múa vờn (loạn động).

4. Xáo trộn trí tuệ

Thống kê tại Việt Nam cho thấy chỉ có khoảng 25% người bại não ở thời gian nghiêm trọng có trí sáng suốt và nhận thức bình thường, bại não ở mức độ nhẹ và vừa có khoảng khoảng 50%. Lộn xộn trí thông minh là một trong các triệu chứng dễ nhận biết của bại não, vấn đề này có thể cải thiện vấn đề này qua trị liệu hành vi, giáo dục hòa nhập.

5. Đảo lộn thị giác

Khoảng hơn một nửa số bệnh nhi sẽ bị xáo trộn thị giác một bên, tình trạng thường gặp nhất đó là mắt bị lác trong và mắt bị tật về khúc xạ như cận thị, nhược thị…một số ít có trường hợp rung giật nhãn cầu, cũng có trường hợp bị mù hoàn toàn. Bệnh nhi bị liệt nửa người cũng có khả năng bị mù bên bị liệt. Khiếm khuyết thị giác có thể đe dọa đến tài năng phối hợp của mắt, tay.

6. Rối loạn tinh thần

Mắt thường không nhìn vào bố mẹ, hay bị co giật. Không cười, dễ giật mình, dễ bị co rúm người lại, mỗi ngày la hét hoặc cáu kỉnh khó chịu

7. Xáo trộn thính giác

khả năng nghe của các bệnh nhi giảm dần cho đến bị điếc khỏi hẳn. Với các bệnh nhi mới sinh mắc chứng tăng bilirubin máu, tạo nên trường hợp bệnh nhi bị loạn động tay chân là trường hợp thường gặp nhất. Đa phần bị mất trình độ nghe với những âm tần cao, nên buộc phải đo điện thính giác thân não mới có thể nhìn ra

Nguyên nhân của bại não

  • Nguyên nhân gây chứng bại não được chia thành 3 loại:
  • Nguyên nhân bại não trong quá trình mang thai chiếm 60% ~ 65%
  • Nguyên nhân trước khi sinh chiếm 30% ~ 40%
  • Nguyên nhân sau khi sinh chiếm 12%
  • Nguyên nhân trước khi sinh: Chứng bại não ở trẻ thường hiện diện khi phái đẹp bị viêm thai kì như rubella (sởi Đức), cytomegalovirus và toxoplasmosis có thể gây nguy hại não của đứa trẻ trong bụng và gây bại não sau này. Các nhiễm khuẩn khác như nhiễm khuẩn ối, viêm nhiễm hệ tiết niệu – sinh dục của người mẹ cũng có khả năng gây nên sinh non. Một trong những nguyên nhân nữa chính là hao hụt khí não "giọt máu" do trẻ sinh ra bị ngạt.
  • Trẻ bị vàng da nhân do sự tích tụ trong máu một loại sắc tố có tên bilirubin do tốc độ phá hủy hồng cầu cao và chức năng gan chưa đang lớn ở trẻ sơ sinh, sắc tố này vượt qua hàng rào động mạch – não và lắng đọng chủ yếu ở các nhân nền của não và làm hậu quả các cấu trúc này đem đến chứng bại não.



Bệnh nhân trĩ mắc rubella khi thai phụ


Nguyên nhân trong thai kỳ: Sinh non có khả năng rất cao bị xuất huyết não gây nguy hiểm các tổ chức đang phát triển của não hoặc gây cần chứng nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất. Hàng năm, tại Mỹ có khoảng 50.000 bé sinh non cân nặng chưa đạt tới 1500g, 85% trong số những bé còn sống thì có khoảng 5%~15% bị mắc bại não, 25%~30% mắc chứng bất ổn tâm thần ở độ tuổi đi học.



Sinh non là nguyên nhân bậc nhất gây bại não

Nguyên nhân sau khi sinh: Bao gồm nhiễm trùng, chấn thương bên ngoài, trúng độc, xuất huyết nội sọ và ngạt nặng. Bé mới sinh bị co giật, trẻ có cân nặng dưới 2500g nên buộc phải được chăm sóc đặc trưng, trẻ ở trạng thái bị ức chế là các nhân tố gây nên bại não.


Hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, nhiễm trùng phổi hít, viêm nhiễm màng não, mất nước, vàng da, tụ máu nội sọ, viêm nhiễm máu dẫn đến trường hợp bị sốc, xẹp phổi làm cho não thiếu hụt oxy, bilirubin trong huyết thanh cao hơn 16mg/dl có mối liên quan mật thiết đến bại não, đặc trưng là bé trong thời kì mới sinh mà áp dụng kháng sinh toàn thân thì tỷ lệ mặc bại não hơi cao.


Não mô cầu gây viêm màng não mủ nhìn trên kính hiển vi

Chẩn đoán bại não

Hiện nay không có bí quyết nào chẩn đoán chính xác về bại não, thầy thuốc chuyên khoa thường buộc phải quan sát trong cấp độ dài để xác định bại não (khám trương lực cơ, sự gia tăng vận động, giao tiếp…). Mặt khác những kiểm tra xác định hình ảnh như siêu âm não qua thóp, chụp cắt lớp vi tính (CT), đặc thù là chụp cộng hưởng từ (MRI) cho biết những thông tin giá trị về nguy hại não. Những kiểm tra hóa sinh hay di truyền tùy theo hướng dự đoán trên lâm sàng.

Đo điện não đồ (EEG) cũng là một kiểm tra cơ bản không thể hao hụt trong nhận dạng bại não cũng như những bệnh của hệ thần kinh trung ương khác.


Chụp CT não

Tỷ lệ phát chứng bại não khoảng 1,2-2,5% (với mỗi nghìn ca sống sót sau khi sinh). Trên 90% trẻ nhỏ bị bại não sẽ sống tới thời kỳ trưởng thành, chỉ có những đứa trẻ chịu tác động nặng nhất sẽ không có khả năng sống sót hoặc thời gian sống rất ngắn.

Điện não đồ
  • Điện dự đoán là phương pháp xác định xét nghiệm bại não thường thấy nhất, chủ yếu bao gồm:
  • Điện não đồ (electroencephalogram)
  • Điện vị
  • Điện não địa hình đồ (BEAM)
  • Điện cơ đồ
  • Sơ đồ trở kháng máu não (REG)
  • Chụp CT não
  • Chẩn đoán triệu chứng

Bại não có chữa được không?

Toàn bộ não không bị nguy hại mà chỉ một phần bị có hại và chủ yếu ớt là phần não điều khiển chuyển động, ngôn ngữ. Phần não tác hại không có khả năng hồi phục lại nhưng cũng không tiến triển không nhỏ đi. Tuy nhiên, những cử động, tư thế và những vấn đề khác liên quan đến bại não có khả năng được cải thiện hay không nhỏ đi sẽ tùy thuộc vào việc trị bệnh của chúng ta.

Phải hiểu rằng: Một bé bị bại não sẽ phát triển thành một người lớn bại não. Ở thời kỳ này, tìm kiếm để chữa trị phần não bị tổn hại là điều không tưởng, điều cần làm là giúp đỡ bé có chất lượng sống Nhất định với khuyết tật của mình và càng độc lập tự phục vụ chừng nào tốt chừng đó.

Điều trị bại não

hiện nay có tương đối nhiều chương trình nói về việc chữa trị bại não như: Diện chẩn, châm cứu vớt bấm huyệt, ghép tế bào gốc, oxy cao áp…Tuy nhiên khoa học trên Thế giới chỉ công nhận Phục hồi nhiệm vụ là bí quyết Nhất định và có hiệu quả nhất với mọi các bé bại não.

Chữa trị bại não cần phải kết hợp:
  • Phục hồi vai trò chuyển động (với tình trạng trẻ chậm tăng sinh về vận động)
  • Trị liệu ngôn ngữ (với trường hợp trẻ chậm nói, gặp khó khăn với âm ngữ)
  • Điều hoà cảm giác (trẻ bị lộn xộn cảm giác)
  • Đào tạo kỹ năng cá nhận (thích nghi với khuyết tật của bản thân, nâng cao năng lực tự phục vụ)
  • Giáo dục hòa nhập (mang đến cho trẻ cơ hội hòa nhập, tương tác với xã hội và tham gia vào xu hướng chính của cuộc sống)
Việc phục hồi nhiệm vụ trừ diệt trên thế giới được chú trọng phần lớn, nhưng ở Việt Nam thường chỉ chú trọng về phục hồi vai trò di chuyển. Đừng quên rằng toàn bộ trẻ nhỏ đều phải được gia tăng diệt cả về chuyển động, hành vi, kỹ năng cá nhân – xã hội, ngôn ngữ, tâm lý…

Để tăng sinh được loại bỏ như vậy nên bắt buộc kết hợp nhiều bí quyết theo một quá trình được đánh giá liên tục về hậu quả.

Bé bại não có khả năng đi lại được không?

Đây là vấn đề mà phần lớn phụ huynh của bé bại não sử dụng rộng rãi. Những bé có thể đi lại được chỉ sau vài tháng tập luyện phục hồi chức năng (có trường hợp bé 5 tuổi đi lại được sau 3 tháng tập luyện tại Trung tâm Vina Health) nhưng nếu hiện tượng quá nghiêm trọng có thể không bao giờ đi được và chúng ta nên buộc phải chấp nhận điều này để hướng tới những mục tiêu quan trọng khác của trẻ.

Cho dù trẻ có đi được hay không trẻ cũng cần bắt buộc được tạo điều khiếu nại để chuyển động từ nơi này thanh lịch nơi khác. Có nhiều cách để giúp trẻ có thể đi tới nơi bé muốn như sử dụng xe lăn, xe đẩy hoặc các loại thiết bị, dụng cụ hỗ trợ khác.

Mặc dù năng lực đi lại có một ý nghĩa rất lớn về yếu tố nhiệm vụ và xã hội. Dù vậy đứng về khía cạnh nhu cầu của trẻ, ngoài việc đi lại được còn có phần lớn kỹ năng và thái độ suy nghĩ khác cũng hết sức nhu yếu đó là:

  • Sự tự tin và yêu đời
  • Có khả năng giao tiếp và tạo mối "giao ban" với tất cả người
  • Tự săn sóc bản thân như tự ăn, mặc trang phục và làm vệ sinh.
  • Tự tiếp thu, tìm tòi và học tập
Chúng ta cần phải nhận thức được rằng trước khi bé có thể đi được thì trẻ nên buộc phải biết tự chủ đầu, cổ của mình, giảm gồng cứng, biết ngồi và có khả năng giữ cân đối trong khi đứng.

Một số bé bại não có thể đi học, mặc dù thường chậm hơn nhiều so với trẻ bình thường. Tóm lại, hiện tượng tác hại càng nhẹ, điều trị sớm, đúng phương pháp thì bé càng có nhiều tài năng đi lại được.

Toàn bộ bí quyết dạy và tập luyện đều buộc phải có sự yêu thương và đùm bọc.

>>Có thể bạn quan tâm:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét